Cây phả hệ họ Trần Đăng

CÂY PHẢ HỆ HỌ TRẦN ĐĂNG
Thạch Khê - Thạch Hà - Hà Tĩnh

Tải về theo đường link: 

Ghi Chú:  Bạn tải về rồi mở file PDF này lên, dùng phím Ctrl lăn chuột giữa để phóng to thu nhỏ cho dễ xem.


-->> Xem tiếp...

Nhận xét của Cựu GS Trần Đăng Nhơn

Trên trang diễn đàn www.trandang.net cựu Giáo sư Trần Đăng Nhơn đã đọc bộ gia phả của họ Mình và nhận xét như sau:
Rất hân hạnh được đọc quyển bộ Gia Phả 2005 và đề cương GIA PHẢ TRẦN ĐĂNG của quý tộc Trần Đăng ở Hà Tỉnh.

Từ lâu chúng tôi vẫn mong mỏi được biết nguồn gốc dòng họ Trần Đăng của chúng tôi ở Khánh hòà phát xuất từ đâu? Qua nhiều bài viết đăng trên www.trandang.net của các bác , chúng tôi rất hy vọng một ngày nào đó sẽ bắt được liên lạc với người cùng người dòng họ ở các tỉnh phía bắc, nơi xuất phát của dòng họ Trần Đăng chúng tôi.

Nay đọc kỹ toàn bộ Gia Phả 2005 và đề cương Gia Phả Trần Đăng , chúng tôi rất sung sướng và tin tưởng rằng giửa 2 dòng họ chúng ta tất có một mối liên hệ "mang tính lịch sử".

Chúng tôi mong rằng chúng ta sẽ dùng trang web này để trao đổi thêm tin tức , sử liệu ...để càng ngày càng cũng cố mối liên kết giửa những người cùng dòng họ Trần Đăng với nhau.

Trần Đăng Nhơn
-->> Xem tiếp...

Hà Tĩnh Danh Nhân Và Thi Ca

HÀ TĨNH DANH NHÂN VÀ THI CA
Sáng tác: Xuân Đông


Hà Tĩnh không chỉ là cái nôi văn hoá, quê hương cách mạng mà ở đây là một vùng đất địa linh nhân kiệt, với những danh nhân nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp... và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với biết bao làn điệu dân ca phong phú, đặc sắc, làn điệu ví dặm đò đưa, Hát ví phường vải...

Hà Tĩnh không chỉ là cái nôi văn hoá, quê hương cách mạng mà ở đây là một vùng đất địa linh nhân kiệt, với những danh nhân nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp... và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với biết bao làn điệu dân ca phong phú, đặc sắc, làn điệu ví dặm đò đưa, Hát ví phường vải...

Read more: http://hatinh24h.org.vn/20558/video-clip-ca-khuc-ha-tinh-danh-nhan-va-thi-ca.hatinh24h.org.html#ixzz2DavTpMLy
Tin Tức Hà Tĩnh 
-->> Xem tiếp...

Lời Mẹ Hát

LỜI MẸ HÁT
Soạn lời: An Ninh
Trình bày: NSUT Hồng Lựu

-->> Xem tiếp...

Một Khúc Tâm Tình Người Hà Tĩnh

MỘT KHÚC TÂM TÌNH NGƯỜI HÀ TĨNH
Sáng tác: Nguyễn Văn Tý
Trình bày: NSND Thu Hiền


MỘT KHÚC TÂM TÌNH NGƯỜI HÀ TĨNH
Sáng tác: Nguyễn Văn Tý

Đi mô rồi cũng nhớ về Hà tĩnh 
Nhớ núi Hồng Lĩnh nhớ dòng sông La, 
nhớ biển rộng quê ta ớ ơ ơ ơ 
Những cánh đồng muối trắng 
Tình sâu ( mấy ) nghĩa nặng, biển ta lại nhớ rừng 
nên chi giữa đồng bằng ( mà ) gió ngàn bay ( i ) về 
Tìm âm vang sóng vỗ .... 

Ai đi xa mô đó biết có nhớ lấy đường về 
Đường Đồng Lộc, đường Khe Giao rồi đường Hồng Lam Đèo Ngang Linh Cảm 
Cùng bao nhiêu con đường ra mặt trận 
Giặc điên cuồng trút hàng vạn bom rơi 
Đường hiên ngang vượt qua truông qua suối 
Thêm bao nhiêu con đường lứa tuổi hai mươi 

Ai hôm nay ra khơi buông lưới 
mà nhìn chi mãi con tàu vào bờ 
Nhìn bến cảng lại nhớ ngày xưa, 
thương con đò cắm con sào đứng đợi 
Cả cuộc đời ngày hôm nay lên trang sách mới 
Trâu ơi theo bầy ta về đồng cỏ mênh mông 
Đắp hồ đầy để điện đưa nhanh dòng nước tới 
Lúa trên đồng, lúa lại thêm bông 

Nghe xuân sang chim đâu bay đến 
đậu cành sim chín, chín mọng vườn đồi 
Chim lấy được quả chín hồng tươi, 
ta cũng lấy được chi vài dăm quả 
quả đầu mùa hạt sương mai lung linh nỗi nhớ 
Yêu quê hương mình nhớ về từ thuở xa xôi 
Đất nào cần vì còn mưa rơi còn gió cuốn 
Có công ta vun trồng thì màu đất lại thêm tươi
-->> Xem tiếp...

Người Đi Xây Hồ Kẽ Gỗ

NGƯỜI ĐI XÂY HỒ KẼ GỖ
Sáng tác: Nguyễn Văn Tý
Trình bày: Đăng Thuận - Thu Huyền



NGƯỜI ĐI XÂY HỒ KẼ GỖ
Sáng tác: Nguyễn Văn Tý
Trình bày: Đăng Thuận - Thu Huyền

Bởi chúng mình thương bao nhiêu mảnh đất cằn
Mà đời không ngại đào mấy con kênh
Ðắp hồ xây đập, ta đưa dòng nước ngọt
để dòng mương nhỏ tắm mát quanh năm
Ruộng đồng ta thoả mơ uớc bao ngàn năm

Kẻ gỗ là đây bao năm đợi tháng chờ
Này vùng đá bạc đồi núi lô nhô
Như dòng suối nhỏ theo sông về với biển
Bỏ đồi hoang lại trong nắng trong mưa
để người nên khổ như đất kia cằn khô

Tay anh phá đá, tay em đào sỏi
Ngồi trong xe ủi em nhớ những ngày hè
Chân lội qua khe em nhớ mùa đông giá
Ta nghe trong đó bao nhiêu là chuyện lạ
Ngày ta đi học em nói thích nghề gì
Nay da em nâu tươi màu suy nghĩ
Thấy mùa phượng vĩ ta ngỡ gặp mùa thi
Cũng ngày phượng nở hai đứa mình ra đi

Bởi chúng mình thương bao nhiêu mảnh đất cằn
Mà đời không ngại đào mấy con kênh
đắp hồ xây đập ta nuôi dòng nước ngọt
để dòng mương nhỏ tắm nắng quanh năm
Ruộng đồng ta thoả mơ uớc bao ngàn năm

Nghệ Tĩnh mình ơi, Sông Lam gọi Núi Hồng
Bạn về theo bạn đào núi lấp sông
đất trời như vẫn vang vang lời trống giục
Mặt hồ lay động nên sang mênh mông
Từng đàn cá lượn cây lúa thêm nặng bông

Ta đi những bước thênh thang đồng rộng
Làng ta di động thêm có đất mình cày
Cho điện giăng dây, cho máy về thôn xóm
Ta đi trong nắng trong mưa đời bận rộn
Bài thơ ta đọc em thấy có điều gì
Nay da em nâu tươi màu suy nghĩ
Thấy mùa phượng vĩ xao xuyến mộng ngày thi
Thấy mùa phượng nở hai đứa mình cùng đi.
-->> Xem tiếp...

Mời Anh Về Hà Tĩnh

MỜI ANH VỀ HÀ TĨNH
Sáng tác: Trần Hoàn
Trình bày: Tố Nga



MỜI ANH VỀ HÀ TĨNH
Sáng tác: Trần Hoàn
Trình bày: Tố Nga

Mời anh về Hà Tĩnh đi dọc đường cái quan Vào tận Đèo Ngang rồi vòng lên Rú Lệ, Trên đường xuôi xuống bể ghé Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà ra Hồng Lĩnh. Ta qua huyện Nghi Xuân viếng thăm mộ Nguyễn Du, Rồi lên đồi cụ Phan ghé qua nhà Trần Phú. Nhớ lại ngày đánh Mỹ ta ngược về Khe Dao, Nghe bạch đàn xôn xao chuyện ngã ba Đồng Lộc. 

Hà Tĩnh ơi, ơi... hờ... hờ... Rằng biết nước Sông La cũng có khi khô cạn Rằng biết Rú Hồng Lĩnh cũng có thời hết cây. Dù cho sáng nắng chiều mây Lòng ta vẫn vững đó đây vẹn tình. Nhớ năm nào Bác Hồ trên đường về thăm quê Bác dừng lại nơi đây thăm bà con Hà Tĩnh Tiếng Người sao nghĩa tình như nhắc như khuyên răn Nhớ làm tốt sửa sai trồng thêm ngô và lúa Muốn thắng giặc xâm lăng kết đoàn thành một khối Miền xuôi và miền núi giúp nhau cùng kháng chiến Những lời Bác đã dạy ta nhớ mãi không quên Nay còn đó ao sen mà Người không thấy về. 

Hà Tĩnh ơi, ơi... hơ... hờ... Rằng biết nước Sông La cũng có khi khô cạn Rằng biết rú Hồng Lĩnh cũng có thời hết cây Dù cho sớm nắng chiều mây Lòng ta với Bác nghìn năm vẫn đầy. Hôm nào về Hà Tĩnh, lại ngược dòng sông La Cùng nhau qua chợ Được, ta lại về quê ta Mai về Hà Tĩnh nghe ấm giọng đò đưa Anh thấy người Hà Tĩnh vẫn ấm lòng như xưa...
-->> Xem tiếp...

Nơi Ấy Quê Mình

NƠI ẤY QUÊ MÌNH
Trình bày: Trọng Tấn


NƠI ẤY QUÊ MÌNH
Trình bày: Trọng Tấn

Quê tôi nắng đỏ đồng mưa thâm cả bùn non
Quê tôi gừng cay muối mặn nếu bao đời câu buồn vui
Ngọt đắng, Gốc đa sân đình đò chiều mẹ đợi
Chè xanh mời gọi sớm cả làng qua
Một miền quê còn nắng gió 
Vẫn ngược đi lên từ trong bão tố
Sóng yên biển lặng, trái ngọt cây lành
Nụ cười ấm êm, nhịp đời cất cao
Non Hồng thêm xanh rờn bên dòng la êm đềm
Ân tình vui câu dặm đêm hội quê mình 
Lại vang trời xa.

Nghe câu hát giận thương trong đêm hội mùa xuân
Câu ca tình sâu nghĩa nặng mát thêm dòng sông tuổi thơ
Ngày mới, nghe câu ca trù từ làng Cổ Đạm
Hoà trong câu Kiều tím cả trời quê
Về đèo Ngang rộn ràng nghe
Thơ Huyện Thanh Quan tình dân nghĩa nước
Sới vui chia buồn đau cảnh nhân tình
Vì đời ai oán để thành tiếng than
Cho ngày nay quê mình,Vui từ nơi bên làng
Con đường xưa đã mở chân trời hi vọng
Niềm tin bền lâu.
-->> Xem tiếp...

Phụ Tử Tình Thâm

PHỤ TỬ TÌNH THÂM
Dân ca Nghệ Tĩnh


PHỤ TỬ TÌNH THÂM
Dân ca Nghệ Tĩnh

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Lo tròn chữ hiếu mới là đạo con

Phụ tử tình thâm
Công thầy rồi nghĩa mẹ
Đừng có tiếng tăm chi nặng lời
Đừng cả tiếng dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Mà cãi mẹ thầy sao phải

Ơ… đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đến cội thung uyên
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ngày trước
Khi ăn cơm rồi bát nước
Ước phụ tử tình thâm
Thầy đói rách nợ nần
Mẹ cũng đói rách nợ nần
Cũng vì con thơ ấu

Dừ phụ trải trắc mẫu
Rồi trắc trải khó khăn
Con ở có thủy có chung
Được phụ từ tử hiếu
Mà được phụ từ tử hiếu
Dăm ba cành đào liễu
Sáu bày quả nam nhi
Thầy chưa được nhờ chi
Mẹ cũng chưa được nhờ chi
Đền công ơn cho đáng
Công mẹ thầy cho đáng

Rồi mười ngày chín tháng
Mẹ thức dục nén thai
Con nên một nên hai
Thầy ấp iu bồng bế
Mẹ ấp iu rồi bồng bế
Con con nên ba nên bốn
Con tríu mẹ chưa rời
Đứa sáu bảy ăn chơi
Con chín mười khôn nậy
Mà đứa chín mười khôn nậy

Ơ … giừ thầy chưa được cậy
Mẹ cũng chưa được nhờ
Giừ mẹ đang phải lo đứa mánh khăn tấm áo
Đứa mánh quần ơ tấm yếm
Con mười lăm mười bảy
Con ăn học dùi mài
Đứa mười chín đôi mươi
Lo chăm xa dựng họp
Lo cửa nhà dựng họp

Khi hoa cười ngọc nở
Chốn đào liễu sung vầy
Thầy mơ tưởng đêm ngày
Ước dâu hiền thấy ước mà rể hiền
Ước dâu hiền mẹ ước mà rể thảo

Ơ… Thánh hiền là đạo rồi khuất bóng từ bi
Con có lỗi điều chi xin mẹ thầy xá quá
Con đừng ở cậy thượng rồi át hạ
Ở ra dạ khinh thường
Con đừng đứa ghét thương
Cũng nhấp giai chi tử
Cũng giai bằng chi tử

Giừ trong sách có chữ
Con mới phải trông vào
Thầy một tuổi một cao
Mẹ một tuổi một già
Con đừng có bấc chì nặng nhẹ,
Chớ có bấc chì nặng nhẹ.

Con ở gần thầy mẹ
Phải xây đắp vun trồng,
Khi vợ dại thì có chồng
Phải vào ra thăm viếng,
Phải đi về thăm viếng.
Khi đồng quà chữ bánh
Khi bún sốt lòng tươi
Ta nâng giấc cho người
Kẻo mai rồi tạ thế
Mai sau rồi ta thế

Ơ… rồi một mai bách tuế ra cây úa lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô được nựa
Mà con muốn tìm mô được nựa
Khi cúng hương cúng lửa
Khi vào bái ra quỳ
Dừ đặt mâm lên thì nỏ thấy thầy mẹ ăn chi
Chỉ thấy ruồi với ruồi
Mà chỉ thấy ruồi với kiến

Chiêm bao tưởng đến
Dù than vắn thở dài
Thầy không đoái không hoài
Mẹ cũng nỏ đoái nỏ hoài
Thật là phụ từ tử hiếu
Ai ơi làm con trọn đạo
Nhắc ai ghi lòng… à á à ơi…
-->> Xem tiếp...

Khúc Hát Sông Quê

KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Trình bày: Anh Thơ


KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Sáng tác: Nguyễn Trọng Tạo 
Thơ: Lê Huy Mậu 

Qua nửa đời phiêu dạt con lại về úp mặt vào sông quê 
Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ, 
Chở che con qua chớp bể mưa nguồn. 
Từng hạt phù sa tháng ba tháng bảy, 
Từng vị heo may trên má em hồng. 
Ơi con sông quê con sông quê, 
Ơi con sông quê con sông quê. 
Sông còn nhớ chăng như ta ngồi ngóng mẹ 
Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng. 
Con cá dưới sông cây trồng trên bãi 
Lúa gặt rồi còn để lại rơm thơm 
Cùng một bến sông con trâu đằm sông dưới 
Bầy trẻ thơ tắm mát dưới thượng nguồn 
Một dòng sông xanh chảy mãi đến vô cùng.
-->> Xem tiếp...

Giận Mà Thương 2 | Trần Hoàn

GIẬN MÀ THƯƠNG 2
 Sáng tác: Trần Hoàn
Biểu diển: NSND Thu Hiền

Bạn ấn nút Next bốn lần mới đến bài Giận Mà Thương 2


GIẬN MÀ THƯƠNG 2
(Trần Hoàn)

Ơ.. ớ ơ.. Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng thì gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Dù có xa nhau đi chăng nữa
Ơ.. ớ ơ.. Thời ba vạn sáu ngàn ngày thời nọ xa

Em xa anh nghe câu dân ca
Giận mà thương sao mà da diết thế
Ôi câu ca nặng tình nặng nghĩa
Có lúc nào anh giận em không.

Chứ có lúc nào em giận anh không
Để thương suốt cả ngày em giận
Khi xa nhau đến ngàn vạn dặm
Giận chẳng còn mà thương rộng dài thêm.

Em nhớ ngày em nhớ đêm
Giận mà thương cháy lòng em đỏ
Thương mà giận dễ gì đã có
Em chỉ tìm thấy ở mình thôi.

Một nắng hai sương đội trời đạp đất
Bao vất vả bàn tay em lo hết
Bao đổi thay anh chưa thể hiểu
Ôi câu ca rằng giận mà thương, mà thương.

Anh lại đi khắp mọi nẻo đường
Mang câu ca và tình yêu thắm nồng
Khi trở gió anh vẫn ấm
Bởi giận rồi cũng chỉ để thương thêm.
-->> Xem tiếp...

Nghệ An: Truyền thống hiếu học của dòng họ Nguyễn Đức

…Trong hàng nghìn năm qua, người dân Nghệ An luôn khát khao sự học với ý thức học để làm người, học để có được những tri thức và năng lực hoạt động, đẩy mạnh sản xuất, học để thoát cảnh đói nghèo...
Khát vọng đó đã tạo nên truyền thống hiếu học của quê hương Xứ Nghệ, cũng là truyền thống tốt đẹp của nhiều gia đình, dòng họ… Tiêu biểu trong số đó có dòng họ Nguyễn Đức ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc…

Họ Nguyễn Đức là dòng họ có truyền thống cách mạng và học hành đỗ đạt từ lâu đời. Từ cụ Phó bảng Nguyễn Đức Tặng đến các nhân tài, chí sỹ yêu nước như cụ Nguyễn Đức Công, một trong những người tham gia phong trào cách mạng từ những ngày đầu Đảng mới thành lập; hay như ông Nguyễn Đức Thái người phát minh ra quả bom 3 càng và bị giặc đày đi Côn Đảo; ông Nguyễn Đức Vân (Hoài Thanh) nhà phê bình văn học lớn của nền thi ca Việt Nam; nhà thơ Anh Ngọc (Nguyễn Đức Ngọc) cây bút sắc sảo của văn nghệ Quân đội; Viện trưởng Viện Hán Nôm Nguyễn Đức Thanh, Thầy Nguyễn Đức Du, người Thầy với hơn 50 năm tận tâm, tận tụy với sự nghiệp trồng người…

Phát huy truyền thống yêu nước và hiếu học của dòng họ, hiện nay, họ Nguyễn Đức đã trở thành dòng họ tiêu biểu trong công tác khuyến học, khuyến tài của huyện Nghi Lộc và tỉnh Nghệ An. Được TW HKHVN tặng bằng khen cho dòng họ khuyến học tiêu biểu năm 2007; UBND tỉnh công nhận dòng họ văn hóa cấp tỉnh năm 2008…

Đến nay, họ đã thành lập được Ban khuyến học với các thành viên là đại diện tiêu biểu trong hội đồng gia tộc. Ban khuyến học của dòng họ đã luôn động viên con cháu phát huy truyền thống dòng họ cố gắng học tập nên người. Các con, cháu đạt danh hiệu, ngoài phần thưởng bằng tiền còn được ghi tên vào sổ vàng của dòng họ. Từ tấm lòng hảo tâm của con cháu, hàng năm Ban khuyến học của dòng họ xây dựng được nguồn quỹ trên dưới 20 triệu đồng. Từ nguồn quỹ này, vào dịp Tết đến, Xuân về, dòng họ Nguyễn Đức tổ chức họp mặt, phát thưởng cho con cháu đạt thành tích cao trong học tập và công tác, ôn lại truyền thống hiếu học của dòng họ và răn dạy cháu con rèn đức, luyện tài trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Nhờ đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, hàng năm dòng họ có hàng chục em đạt danh hiệu học sinh giỏi, học sinh xuất sắc. Riêng năm học 2010 - 2011 vừa qua, có 12 em thi đỗ vào đại học, 6 em đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh. Họ Nguyễn Đức thật sự tự hào bởi hiện nay đã có 7 người có học vị tiến sĩ, 2 phó giáo sư và rất nhiều thạc sĩ, cử nhân…

Từ việc thực hiện tốt phong tào hiếu học trong dòng họ và phong trào khuyến học ở địa phương đã tạo điều kiện cho các gia đình trong dòng họ xây dựng nếp sống văn hóa và góp phần giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương. Hiện nay, 100% hộ trong họ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, không có người vi phạm pháp luật và tệ nạ xã hội, không có người sinh con thứ 3 và không có trẻ em bỏ học giữa chừng. Năm 2008, dòng họ Nguyễn Đức được Bộ trưởng Bộ Công An tặng bằng khen cho dòng họ không có tệ nạn xã hội.

Họ Nguyễn Đức không chỉ làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài trong dòng họ của mình mà còn là dòng họ tiêu biểu trong công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở địa phương. Ông Vũ Trọng Tĩnh, Bí thư Đảng ủy – Chủ tịch Hội khuyến học xã Nghi Trung nhận xét: “Dòng họ Nguyễn Đức trong nhiều năm qua không chỉ làm tốt công tác khuyến học của dòng họ mình mà còn gương mẫu đi đầu trong công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập ở địa phương. Hàng năm con cháu của dòng họ Nguyễn Đức ở khắp nơi trong cả nước đều hướng về quê hương với sự ủng cả về vật chất và tinh thần, nhằm khơi dậy truyền thống hiếu học của con em trong xã…”

Nằm trong vùng quê giàu truyền thống văn hoá cách mạng, con cháu dòng họ Nguyễn Đức đã từng giữ vững truyền thống yêu nước, đoàn kết, hiếu học và giờ đây, những người con của dòng họ tiếp tục làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài không ngừng xây dựng dòng họ ngày một phát triển, xứng đáng là dòng họ văn hóa tiêu biểu của đất học Nghi Lộc./.

VĂN ĐIỀU (Báo Nghệ An)
Liêm Chép trên trang: http://www.hoikhuyenhoc.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2606
-->> Xem tiếp...

Trương Quốc Dụng - Người Cháu ngoại của Trần Đăng Đạt

 Trong cuốn gia phả của họ ta có ghi về ông Trần Đăng Đạt đòi thứ 3 như sau:

TRẦN ĐĂNG ĐẠT
 (Đời thứ: 3)
Con Ông: Đệ Nhị Thế Tổ

    Ông là con của Đệ Nhị Thế Tổ. Hiện vẫn chưa rõ ngày sinh và ngày mất của ông.  Phần mộ của ông được an táng tại Nghĩa Trang Họ Đại Tông.
    Ông sinh được năm người con:
  •  Trần Đăng Phúc: Có tên là Ông Sắt ở Thị Xã Hà Tĩnh, mất liên lạc nên không sõ con cháu   
  •  Trần Đăng Trình: Ông Trình đậu hai khóa Tú Tài làm thừa lại tỉnh Nghệ Tĩnh.Vợ là Trần Thị Thảo sinh được hai người con trai: Trần Đăng Quán và Trần Đăng Đá
  • Cố Đồ: Tên thường gọi không rõ, do làm nghề dạy học nên gọi là Cố Đồ, Được phong Lê Triều Hiệu Sinh, Cố đồ sinh hai trai một gái: Thị Ninh, Trần Đăng Bình, Trần Đăng Sinh
  • Trần Đăng Tâm: Thường gọi là Cố Chính, Ông làm ruộng và nghề Thầy Âm, Con của Ông là Trần Đăng Định
  • Trần Thị Cường: Chồng Bà là Trương Quốc Bảo ( Gọi là Quan Cụ), Ông Bà sinh được ba người con, nhưng có Trương Quốc Dụng đậu tiến sỹ Thượng Thư Bộ Hình triều Nguyễn
Như vậy ba người con của Bà Cường trong đó có Ông Trương Quốc Dụng là bài vai  với ông Trần Đăng Quán, Trần Đăng Đá, Thị Ninh, Trần Đăng Bình, Trần Đăng Sinh, Trần Đăng Định.

Còn về Ông TRƯƠNG QUỐC DỤNG là một tấm gương sáng. Là niềm tự hào của Quê hương.
 ĐẠI HỌC SỸ
TRƯƠNG QUỐC DỤNG
(1797 - 1864)
Trên trang Bách Khoa Toàn Thư (http://vi.wikipedia.org) ghi ông:

Trương Quốc Dụng


Trương Quốc Dụng (17971864), khi trước tên là Khánh, tự: Dĩ Hành; là danh thần, là nhà văn, và là người có công chấn hưng lịch pháp Việt Nam thời Nguyễn.

Thân thế và sự nghiệp

Trương Quốc Dụng sinh ngày 5 tháng Chạp năm Đinh Tỵ (1797) tại làng Phong Phú; nay là xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Tổ tiên ông từ Thăng Long (Hà Nội) vào định cư ở đất Phong Phú từ năm 1549, có nhiều người làm quan lại. Cố nội ông là Trương Quốc Nghìn làm Chánh bảo vệ kinh thành Thăng Long thời Hậu Lê. Ông nội ông là Trương Quốc Kỳ, đỗ đầu Hương cống (khoa thi 1753), là thầy dạy Thái tử Lê Duy Vĩ. Cha ông là Tú tài Trương Quốc Bảo, một thầy giáo nổi tiếng hay chữ, được phong hàm Trung thuận đại phu). Mẹ ông là bà Trần Thị Cường.
Thuở nhỏ, Trương Quốc Dụng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ, ham mê sách vở và có tài văn chương. Dưới triều Minh Mạng, năm 1821, ông thi đỗ Tú tài. Năm 1825, ông thi đỗ Cử nhân, và đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829).
Ban đầu (1830), ông được bổ làm Tri phủ phủ Tân Bình (Gia Định), sau đổi về kinh (Huế) làm Biên tu ở viện Hàn lâm, dần thăng đến Hình bộ lang trung. Vì phạm lỗi, bị bãi quan, sau cho theo bộ Lại để lấy công chuộc tội [1].
Năm 1833, ông được khởi phục chức Tư vụ để vào quân thứ ở Phiên An (Gia Định). Ở đây, ông theo Tham tán đại thần Trương Minh Giảng tham gia việc đánh dẹp cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, và đánh đuổi quân Xiêm La vào năm 1833-1834[1]. Khi việc yên, ông được cất lên làm Chủ sự, rồi lần lượt trải các chức: Viên ngoại lang bộ Hộ, Án sát sứ Quảng NgãiHưng Yên.
Năm đầu Thiệu Trị (1841), ông về làm quyền biện công việc bộ Lễ, sau thăng chức Tả thị lang, lần lượt trải thêm ba bộ là bộ Lại, bộ Hìnhbộ Công. Năm 1846, thăng ông làm Thự Tả Tham tri bộ Công.
Tự Đức năm đầu (1848), Trương Quốc Dụng dâng sớ trình bày 4 việc, được vua khen và cho thi hành. Đó là: "dè dặt tài dụng, thương xót việc hình ngục, tinh giảm sự tiêu phí vô ích, và sửa đổi thói tật của sĩ phu" [2].
Biết tài, nhà vua sung ông làm Kinh duyên giảng quan, kiêm coi Khâm thiên giám và giữ ấn triện Đô sát. Sau ông thăng làm Thượng thư bộ Hình, sung Quốc sử quán Tổng tài [3]. Theo sử liệu thì ông cũng từng được cử đi chấm thi ở các trường thi Hương, thi Hội nơi đất Bắc[4].
Tháng 5 (âm lịch) năm 1862, quân Tạ Văn Phụng vây hãm thành tỉnh Hải Dương. Nghe theo lời đình thần đề cử, nhà vua sung Trương Quốc Dụng (khi ấy đang chức Thượng thư bộ Hộ) làm Hải Yên Thống đốc quân thứ.
Từ Hưng Yên, Trương Quốc Dụng cùng với Đào TríPhan Tam Tỉnh dẫn quân đi đánh, lấy lại được phủ Bình Giang, rồi thành tỉnh Hải Dương. Nhưng sau khi ông theo cửa tây vào thành, thì bị quân đối phương vây lại. Từ trong thành, ông bày kế cho quân ra đánh, phá vỡ được. Sau trận, ông được thăng làm Hiệp tá, Đào Trí được thăng làm Thống chế [5].
Năm 1863, thăng ông làm Hiệp biện đại học sĩ, nhưng vẫn làm Thống đốc quân vụ như cũ.
Tháng 6 (âm lịch) năm 1864, đạo quân thứ Hải Yên đánh nhau với quân Tạ Văn Phụng tại La Khê (nay thuộc xã Tiền An, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Quan quân nhà Nguyễn thất thế, bị quân thủy bộ của đối phương vây kín. Trương Quốc Dụng (khi ấy đang chức Hiệp thống), Tán lý Văn Đức Khuê, Tán tương Trần Huy San đều chết trận. Chưởng vệ Hồ Thiện bị bắt sống không chịu khuất mà chết, còn biền binh thì bị thương và chết rất nhiều [6].
Thương tiếc, vua Tự Đức sai người đưa quan tài về táng ở quê (làng Phong Phú), đồng thời sai quan đến tế.
Năm 1865, bàn định công tội, nhà vua phán rằng: "Trận đánh tại La Khê...Trương Quốc Dụng suy tính thất cách, tội ấy cố nhiên khó chối từ được, nhưng trẫm nghĩ Quốc Dụng là người giúp việc cũ…bị dao ngăn đạn lạc đến nỗi bỏ mạng nơi chiến trường, rất đáng tiếc. Chuẩn cho truy tặng (ông) hàm Đông các Đại học sĩ". Đến năm 1880, Trương Quốc Dụng được thờ ở đền Trung Nghĩa (Huế) [7].
Con ông là Trương Quốc Quán, đỗ Cử nhân, sau mộ quân nghĩa dũng đi theo quân thứ của cha (khi cha ông được cử làm Hải Yên Thống đốc quân thứ), được đặc cách làm Chủ sự [8].

Tác phẩm

Tác phẩm của Trương Quốc Dụng có:
  • Trương Nhu Trung thi tập (Tập thơ Trương Nhu Trung) bằng chữ Hán.
  • Thoái thực ký văn (Ghi chép những điều nghe được lúc lui về dùng cơm) viết bằng chữ Hán, gồm 8 quyển. Đây là một công trình tổng hợp nửa khảo cứu, nửa bút ký, ghi sơ sài nhiều việc, được xếp theo các thể loại sau:
- 1/ Phong vực: nói về sự thay đổi của sông núi, đường sá từ thời Hùng Vương đến thời Minh Mạng. Có phụ chép về Cao Miên, Tiêm LaMiến Điện...
- 2 và 3/ Chế độ: nói về tước cấp, bổng lộc, khoa cử (văn võ), quân chế, thuế lệ, tiền văn, quân cấp công điền...từ thời đến thời Minh Mạng.
- 4/ Nhân phẩm: nói về học hành và các nhân vật lịch sử từ thời Trần đến thời Minh Mạng.
- 5/ Cổ tích (có phụ phần sơn xuyên): Phần nhiều nói về các đình chùa, miếu mạo, thành trì,...ở miền Trung và và miền Bắc Việt Nam. Về Lam Thành sơn (thuộc Nghệ An) có nói đến chuyện đồng trụ (cột đồng Mã Viện). Về sông có nói thêm về các đê điều.
- 6/ Trưng ký (những điều lạ): ghi các chuyện thần thoại có liên quan đến các nhân vật lịch sử Việt Nam.
- 7/ Tạp sự (chuyện vặt): ghi các chuyện vặt về thơ văn, thi cử, thành thánh, xử án,...
- 8/ Vật loại: nói về cây cối, thóc lúa, ngô khoai chim muông,...và các loại khác như hoa, gỗ, tre, chè,...[9]
Ngoài ra, ông còn biên tập sách Chiếu biểu luận thức (Bàn về cách thức của chiếu, biểu) và tham gia duyệt sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Kính vâng san định sử Việt đại cương và chi tiết làm tấm gương soi suốt cổ kim). Nhân việc này, ông có làm bài "Khâm định vịnh sử phú" (Phú vâng mệnh vua vịnh sử).

Ghi nhận công lao

Sử nhà NguyễnĐại Nam chính biên liệt truyện, có đoạn chép về Trương Quốc Dụng như sau:
"Quốc Dụng là người trầm tĩnh, dẫu làm quan (song) chưa từng rời quyển sách, mọi người đều suy tôn là học rộng…Tương truyền là nhà làm lịch bị thất truyền, (khi) Quốc Dụng làm quản lĩnh Khâm thiên giám, hàng ngày truyền dạy cho, đến nay mới nối được nghề học ấy. Quốc Dụng ngày thường có kiến văn được điều gì đều ghi chép cả, có tập “Thoái thực ký văn lục” truyền lại ở đời" [10].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trong sách Đại học sĩ Trương Quốc Dụng cũng đã viết rằng:
"Trương Quốc Dụng là một nhà thiên văn học, một người thầy đào tạo ra những nhà thiên văn học cho xứ sở nữa đầu thế kỷ XIX. Với tư cách là một nhà thiên văn học có công truyền dạy, chấn hưng khoa làm lịch Việt Nam thời Nguyễn. Tên ông Trương Quốc Dụng còn đáng được ghi vào danh sách các nhà thiên văn học Việt Nam. Và cũng có thể tôn vinh ông là một trong các vị hậu tổ của khoa làm lịch Việt Nam[11].
Ngoài ra, ông còn được người đời đánh giá là "vị quan có tài cao, đức trọng, học rộng, biết nhiều, công chính thanh liêm, tính tình ngay thẳng, không ưa nịnh bợ, chạy chọt" [12].
Tưởng nhớ công lao và sự hy sinh của Trương Quốc Dụng và Văn Đức Khuê, năm 1877, dân làng La Khê (nơi hai ông hy sinh) đã lập đền thờ hai ông (có tên là đền Quan Đại). Trong đền có bức hoành phi "Công nhược Thái Sơn" (công lao như núi Thái Sơn) và nhiều đôi câu đối, trong đó có câu:
Hồng Lĩnh giáng thần, nho tướng khoa danh song tuyệt lĩnh;
Tiên Thành hợp miếu, trung thần tâm sự các thiên thu.
Nghĩa là:
Hồng Lĩnh giáng thần, nho tướng khoa danh hai đỉnh vút;
Tiên Thành hợp miếu, trung thần lòng sáng mãi nghìn thu [13].
Ngày 31 tháng 7 năm 2009, khu lăng mộ và đền thờ Trương Quốc Dụng ở xã Thạch Khê (Thạch Hà, Hà Tĩnh) đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia [14].
Tên ông cũng được đặt cho một con đường ở Quận Phú Nhuận Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên bị ghi sai thành Trương Quốc Dung[15]

Sách tham khảo

  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch, trong bài gọi tắt là Chính biên). Nhà xuất bản Văn học, 2004.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều chính biên toát yếu (bản dịch, trong bài gọi tắt là Toát yếu). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
  • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, mục: " Thoái thực ký văn ". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
  • Nguyễn Lộc, mục từ "Trương Quốc Dụng" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Đắc Xuân, Đại học sĩ Trương Quốc Dụng Qua sử sách tư liệu xưa và nay. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006.

Chú thích

  1. ^ a b Theo Chính biên, tr. 633.
  2. ^ Theo Chính biên, tr. 634.
  3. ^ Chép theo Chính biên (tr. 634). Từ điển văn học (bộ mới, tr.1863) và Từ điển bách khoa Việt Nam (mục: "Trương Quốc Dụng") đều ghi ông làm "Thượng thư bộ Hình kiêm Phó Tổng tài Quốc sử quán".
  4. ^ Theo GS. Nguyễn Lộc, Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1863) và bài viết về Trương Quốc Dụng trên website Mạng Việt Nam [1].
  5. ^ Theo Toát yếu, tr. 403.
  6. ^ Theo Toát yếu, tr. 411.
  7. ^ Theo Chính biên, tr. 633.
  8. ^ Theo Toát yếu, tr. 400.
  9. ^ Lược theo Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tr. 1226-1227.
  10. ^ Trích trong Chính biên, tr. 635.
  11. ^ Theo Nguyễn Đắc Xuân, sách đã dẫn.
  12. ^ Theo bài viết "Trương Quốc Dụng - Tấm gương tài đức xứ Nghệ" [2].
  13. ^ Theo bài viết "Trương Quốc Dụng - Tấm gương tài đức xứ Nghệ" (đã dẫn) thì ngôi đền này đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 2000. Xem thêm bài viết "Đền Quan Đại và nghĩa khí của 2 vị công thần thời Nguyễn" [3].
  14. ^ Theo bài viết "Tri ân Đại học sĩ Trương Quốc Dụng" trên báo Đất Việt (bản điện tử) [4].
  15. ^ Hữu Công (22/9/2011). “Nhiều con đường ở TP HCM đặt sai tên danh nhân”.

Liên kết ngoài

  • Nhân vật Trương Quốc Dụng [5]
-->> Xem tiếp...

Danh bạ website những họ tộc Việt Nam

-->> Xem tiếp...

Liên khúc nhạc Hà Tĩnh

LIÊN KHÚC NHẠC HÀ TĨNH CỰC HAY



Nguồn từ YouTube
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG QUỲ

TRẦN ĐĂNG QUỲ
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Định
Giỗ ngày 25/9/1956
Vợ là Trương Thị Út, giỗ ngày 24/3. Các con:
  • Trần Đăng Lự 
  • Trần Đăng Đỏ ( Mất) 
  • Thị Chử: Chồng là Dương Vệ 
  • Thị Cứ: Chồng là Phan Thôn 
  • Thị Tứ: Chồng là Đức Lương 
  • Thị Ngụ: Giáo viên tiểu học, Chồng là Từ Văn Diến ( Thạch Tiến ) 
  • Thị Em (Mất)
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG THUẦN

TRẦN ĐĂNG THUẦN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Hành

Sinh năm 1884 mất ngày 24/10/1945 mộ táng tại Xóm Biền, các con:

  • Trần Đăng Trường (Mất) 
  • Trần Thị Què ( Mất) 
  • Trần Đăng Thụ
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG PHIẾN

TRẦN ĐĂNG PHIẾN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng …

(Chưa đấu kết được gia phả)

Sinh năm 1909 mất ngày 23/2/1945, vợ là Dương Thị Miêng, các con:

  • Trần Thị Định
  • Trần Đăng Phiên ( Mất)
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG XUYẾN

TRẦN ĐĂNG XUYẾN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng …

(Chưa đấu kết được gia phả)

Sinh năm 1904 mất 10/1/1937
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TIẾN

TRẦN ĐĂNG TIẾN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng …

(Chưa đấu kết được gia phả)

Sinh năm 1901 mất ngày 7/5/1904
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐỊCH

TRẦN ĐĂNG ĐỊCH
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Hành

Sinh năm 1862 mất ngày 26/6/1930.
Vợ đầu Nguyễn Thị Thùy, giỗ ngày 13/8.
Vợ kế Dương Thị Kim Vọ sinh năm 1870 mất ngày 10/12/1936

Các con của Ông:
  • Trần Đăng Yến 
  • Trần Thị Nậy sinh 1898, mất 28/1/1942, chồng là Nguyễn Khang, con của Bà NậyNguyễn Thị Thủy lấy chồng là Dương Lý, Nguyễn Thị Bộ lấy chồng là Dương Kim Cẩn (Thạch Lạc) 
  • Trần Thị Đỉu: (Bà Long Ký) sinh năm 1902 mất ngày 5/2/1995
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG KHỞI

TRẦN ĐĂNG KHỞI
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Hành

Sinh năm 1856 mất ngày 21/7/1902, mộ táng tại Tràm Đình,
Vợ là Phan Thị Hương sinh 1862 mất ngày 11/11/1931 mộ táng tại Xóm Biền. Các con:
  • Trần Đăng Bưu
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG GIAI

TRẦN ĐĂNG GIAI
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Phi

Chức vụ Lý Trưởng sinh năm 1868, mất ngày 21/7/1932 mộ Ông Bà đều táng ở Động Phủ. Các con:

  • Trần Thị Khả: Sinh 1894, chồng là Dương Bảy làm Phó Lý con Ông Dương Linh (Thường gọi là Cố Phương) 
  • Trần Đăng Kham 
  • Trần Đăng Uyển 
  • Trần Thị Em sinh 1905, chồng là Dương Linh 
  • Trần Đăng Hiển
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG HOÀNG

TRẦN ĐĂNG HOÀNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Phi

Chức vụ Phó Lý, giỗ ngày 13/9, mộ táng tại Động Phủ.
Vợ Nguyễn Thị Hằng Nhì, mộ táng tại nương nậy. Các con là:
  • Trần Thị Tùy: Sinh năm 1894 
  • Trần Thị Hằng Tam: giỗ ngày 5/8, Chồng là Phan Huy Lê. 
  • Trần Thị Hằng Tứ : Chồng là Nguyễn Công Trang. 
  • Trần Thị Hằng Ngụ: Giổ ngày 29/4 Chồng là Trương Đăng Đại, giỗ 29/1
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG LƯỢNG

TRẦN ĐĂNG LƯỢNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Vợ là Trần Thị Thông, các con:

  • Trần Đăng Xin 
  • Trần Đăng Hoán 
  • Trần Thị Huế
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TIẾU

TRẦN ĐĂNG TIẾU
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Giổ ngày mồng 8 tháng 7.
Vợ đầu Trần Thị Tỉnh (Họ ở Ông Trần Đức Lương) có con Trần Đăng Hiệp sinh khoảng 1917 mất năm 1947.
Vợ kế Hoàng Thị Thanh mất ngày 11 tháng 6 năm 1978, ở Bắc Khê. Các con:

  • Trần Đăng Mại 
  • Trần Đăng My 
  • Trần Thị Bốn
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG HƯƠNG

TRẦN ĐĂNG HƯƠNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng ………

(Chưa đấu kết được gia phả)

Sống ở Thanh Hóa làm nghề thợ Bạc, Ông sinh được hai con gái, mộ chiêu hồn tử táng ở Động Trạm Đình.
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG LƯỢNG

TRẦN ĐĂNG LƯỢNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng ………

(Chưa đấu kết được gia phả)

Thường gọi là Cố Xin Vương

Các con:
  • Trần Thị Hy: Lấy ông Nguyễn Bảy ở Thạch Lạc 
  • Trần Thị Khang: lấy chồng Họ Trương Quốc, con Bà là Ông Đường Cù và Ông Toán Trù.
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG KIÊN

TRẦN ĐĂNG KIÊN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Ông không có vợ con
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG QUẢNG

TRẦN ĐĂNG QUẢNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Thường gọi là Cố Thộ

Các con:

  • Trần Đăng Tộ ( Mất) 
  • Bà Cháu Duyệt 
  • Bà Cháu Tâm 
  • Bà Thái Thân
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐỈNH

TRẦN ĐĂNG ĐỈNH
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Thường gọi là Thầy Đỉnh, sinh được bốn người con, hiện nay còn cháu là Bà Trần Phúc.

Các cháu bài vai: Bà Quynh, Bà Hai, Bà Ba, Bà Tân, Ông Năm, Ông Sáu, Ông Bảy, Bà Cọt. Chắt Ngoại: Ông Lý Kỷ, Ông Hạnh Phúc.
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG HỌC

TRẦN ĐĂNG HỌC
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Nhin

Còn gọi là Ông Tô, ngày giỗ … …………… Ông sinh được năm người con:

  • Trần Đăng Điến 
  • Trần Đăng Kiện 
  • Trần Đăng Tuyển 
  • Trần Đăng Bộ 
  • Trần Thị Đỏ
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TRẠCH

TRẦN ĐĂNG TRẠCH
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Hạnh

Ông mất sớm
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TỪ THIỆN

TRẦN ĐĂNG TỪ THIỆN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Hạnh

Ông sinh được ba người con:

  • Bà Xuân Liên 
  • Trần Đăng Thung (Mất) 
  • Bà Mai Hai (Mất)
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TRỤ

TRẦN ĐĂNG TRỤ
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Điền
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐIỂN

TRẦN ĐĂNG ĐIỂN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Điền
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TỈNH

TRẦN ĐĂNG TỈNH
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Điền

Giỗ ngày 15 tháng 11.
Vợ là Trương Thị Thế, giỗ ngày 15/6, mộ Ông Bà đã đưa vào lăng động Biền Xứ.
Các con của Ông Bà:

  • Trần Thị Hê 
  • Trần Đăng Huệ
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG TỚN

TRẦN ĐĂNG TỚN
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Điền

Trong cuốn gia phả năm 2005 ghi là Trần Đăng Tớn, song tên đúng của Ông có thể là Trần Đăng Đương? Ngày giỗ của Ông là ngày 5 tháng 8.

Vợ là Trần Thị Thùy giỗ ngày 5/12. Ông Bà sinh được năm người con gái (Trong đó có một người con nuôi ), do không có con trai, Ông Tớn lấy cháu là Trần Đăng Huệ làm thừa tự.
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐƯỜNG

TRẦN ĐĂNG ĐƯỜNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Thu

Ông mất sớm
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG HIỆP

TRẦN ĐĂNG HIỆP
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Thu

Tên thường gọi là Cố Đội Hạp, sinh năm 1828 mất ngày 19 tháng …………… Ông Hiệp đi lính Nam Triều làm chức đội trưỡng triều Tự Đức. Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Ông cùng các Ông Đề Quynh, Đề Oánh theo nghĩa quân cần vương trong phong trào "Bình Tây Sát Tả" chống Pháp. Ông giỏi vỏ nghệ, chiến đấu dũng cảm, giết được nhiều giặc trong trận đánh Cồn Vàng (Ngày nay thuộc xóm Thanh Cao - Thạch Khê) vào năm 1858.

Ông Đội Hạp là niềm tự hào của Tộc Trần Đăng về một vị quan võ. Quan hàm của Ông Hiệp ghi là:

"Tiền Ưu Binh Đội Trưởng
Chánh Thất Phẩm Hàng
Tăng Hương Đình Kỳ Lão
Thăng Thụ Nam Giáp
Tiên Chỉ Thi Chất Thực
Chi Linh Vị Tiền"

Mộ Ông Đội Hạp táng tại Lõm Cù Vẹ, Ông có ba Vợ:

Bà Nguyễn Thị Thứ: mộ Bà Thứ táng tại Động Chiêu Liêu, sinh được hai con gái:
  • Trần Thị Thế Tì 
  • Trần Thị Phú Cường 
Bà Dương Thị Liễu: Quê ở Tx.Hà Tĩnh, không có con.

Bà Đồng Thị Mận: Giổ ngày 10 tháng 11 năm 1944, mộ táng tại động Chiêu Nghi. Các con gồm:
  • Trần Đăng Phúc 
  • Trần Đăng Sinh 
  • Trần Đăng Huỳnh 
  • Trần Thị Tưởng
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG THỐNG

TRẦN ĐĂNG THỐNG
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Thu

Ông mất sớm
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐỊNH

TRẦN ĐĂNG ĐỊNH
(Đời thứ: 7)
Con Ông: Trần Đăng Đạc

Ông không có con, tên thường gọi là Cố Hạnh Chiến. Ông chuyển cựa trưởng cho ông Trần Đăng Hiệp (Bài vai bậc cháu với Ông Định)
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐỊNH

TRẦN ĐĂNG ĐỊNH
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Chính

Chức vụ là Phó lý, tên thường gọi là Cố Triện.
Cố sinh được 6 người con:

  • Trần Đăng Quỳ 
  • Trần Thị Nậy lấy ông Trương Đăng Thân xóm 11 Thạch Khê 
  • Trần Thị Ba lấy ông Lực Lượng 
  • Trần Thị Soa lấy ông Nguyễn Từ cùng xóm. 
  • Trần Thị Bốn làm vợ kế Ông Dương Tuyên ở xóm 8 Thạch Khê. 
  • Trần Thị Năm lấy chồng ở Cẩm Hòa
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG ĐẠI

TRẦN ĐĂNG ĐẠI
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Ông Đại làm thợ bạc, sinh được hai con:

  • Trần Đăng Vị ( Mất Sớm) 
  • Trần Thị Vân
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG BIỂU

TRẦN ĐĂNG BIỂU
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Ông đi lính thời Tự Đức, Ông Bà không có con, mộ táng tại Tràm Đình:
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG HÀNH

TRẦN ĐĂNG HÀNH
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Sinh năm 1832, mất ngày 21 tháng 9 năm 1897 mộ táng tại Động Hoàng Xà , Điều Con Phượng. Các con của ông:

  • Trần Đăng Khởi 
  • Trần Đăng Địch 
  • Trần Đăng Dụ 
  • Trần Thị Nhu 
  • Trần Thị Cương 
  • Trần Đăng Hậu 
  • Trần Đăng Thuấn
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG PHI

TRẦN ĐĂNG PHI
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Sinh năm 1820 Triều Minh Mạng, mộ táng tại Động Phủ.
Vợ là Trần Thị Hằng Nhất sinh năm 1826, giỗ ngày 18 tháng 8, mộ táng tại Động Phủ, Bà là con cháu Hồ Bá Thi ( Thạch Lạc )

  • Trần Đăng Hoành 
  • Trần Thị Hằng Nhì 
  • Trần Thị Hằng Tam 
  • Trần Thị Hằng Tứ 
  • Trần Thị Hằng Ngũ 
  • Trần Đăng Giai
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG NHUNG

TRẦN ĐĂNG NHUNG
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Ông làm nghề thợ bạc, giổ ngày 24/9, Ông sinh được một con trai tên húy không rõ. Vợ người Họ Hồ (Chổ Ông Chắt Huyết - Thạch Lạc).
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG SÂM

TRẦN ĐĂNG SÂM
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Có tên là Đăng Ký làm nghề Chợ BạcThanh Hóa, con cháu là Cò Mọt, Cò Tạ và hai người con gái hiện đang mất liên lạc.

  • Trần Đăng Cò Mọt 
  • Trần Đăng Cò Tạ 
  • Trần Thị … 
  • Trần Thị …
-->> Xem tiếp...

TRẦN ĐĂNG NHIN

TRẦN ĐĂNG NHIN
(Đời thứ: 6)
Con Ông: Trần Đăng Sinh

Tên thường gọi là Cố Tô, làm Lý Trưởng và dạy học đời Gia Long, Cố có hai vợ và sinh được 8 người con:

  • Trần Đăng Học 
  • Trần Đăng Đỉnh 
  • Trần Đăng Quảng 
  • Trần Đăng Kiện 
  • Trần Đăng Lượng 
  • Trần Đăng Tiếu 
  • Trần Thị Thế 
  • Trần Thị Khang
-->> Xem tiếp...